• About
  • Privacy
  • Contact
    • Sitemap
  • DMCA
  • Login
  • Register
Tài chính Novi cards
  • Kinh tế
  • Tài chính
  • Kinh doanh
  • Doanh nghiệp
No Result
View All Result
Tài chính Novi cards
  • Kinh tế
  • Tài chính
  • Kinh doanh
  • Doanh nghiệp
No Result
View All Result
Tài chính Novi cards
No Result
View All Result
Home Tài chính

Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh tế | Novicards

Lý thuyết xem xét tác động của FDI đối với tăng trưởng kinh tế

by @NoviCards
2022
in Tài chính, Đầu tư

Tác động của FDI đối với tăng trưởng kinh tế

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã và đang là nguồn tài chính quan trọng, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, tiến bộ công nghệ, thúc đẩy thương mại quốc tế, xóa đói giảm nghèo, bảo đảm cán cân thanh toán ở các nước đang phát triển, trong đó có các nước ở khu vực Đông Nam Á (ASEAN). Trong một thập kỷ qua, sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (2007-2008), dòng vốn FDI chảy vào các nước ASEAN tăng nhanh từ 43,37 tỷ đô la (2009) lên gần 160 tỷ đô la Mỹ (2018), chiếm 11,9% thu hút FDI toàn cầu (The ASEAN Secretarist & United Nations Conference on Trade and Development, 2019).

Vị thế và tầm quan trọng của các nền kinh tế trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN) đã tăng lên bởi vì khả năng phục hồi sau khủng hoảng do Khu vực này đã có nhiều cải cách trong hệ thống tài chính sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997-1998. Sự tồn tại của ASEAN cũng giúp tạo dựng hình ảnh của một khu vực kinh tế tăng trưởng nhanh, quy mô thị trường lớn và là điểm thu hút đầu tư hấp dẫn đối với toàn thế giới. Cùng với việc tăng thu hút dòng vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng trưởng kinh tế (GDP) của khu vực này cũng tăng lên đáng kể từ 1555,9 tỷ đô la Mỹ (USD) năm 2009 lên gần gấp đôi vào năm 2018 đạt 2973, 3 tỷ USD.

Sự gia tăng lớn và nhanh chóng về khối lượng FDI trong vài thập kỷ qua đã tạo ra một động lực mạnh mẽ cho những nghiên cứu về hiện tượng này. Thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế được thực hiện chủ yếu đối với nhiều nhóm nước hoặc các nước khác nhau, như các nghiên cứu của Blomstrom & cộng sự (1992), Agrawal (2000), Tiwari & Mutasku (2011), Roman & Padureanu (2012). Kết quả của các nghiên cứu cho thấy tồn tại mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế ở các mực độ khác nhau. Nhìn chung, các nghiên cứu đều chỉ ra sự tác động tích cực của FDI đến tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên, có những nghiên cứu cho thấy FDI ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế hoặc không có ý nghĩa với sự tăng trưởng kinh tế. Như vậy, các kết quả nghiên cứu vẫn chưa thống nhất với nhau về ảnh hưởng của FDI đến tăng trưởng kinh tế.

Đối với các nước ASEAN, trong hơn 10 năm qua kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, dòng vốn nước ngoài FDI có tác động đến tăng trưởng kinh tế các nước ở khu vực hay không vẫn là một câu hỏi cần nghiên cứu. Bằng việc sử dụng dữ liệu bảng trong thời gian 10 năm, nhóm tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau để phân tích liệu FDI có ý nghĩa đối với sự tăng trưởng kinh tế (GDP) của các nước trong khu vực thời gian qua hay không. Kết quả nghiên cứu nhằm củng cố thêm bằng chứng thực nghiệm về tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế.

RelatedPosts

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài | Novicards

Yếu tố tâm lý đầu tư trong đầu tư chứng khoán – Novicards

Các nghiên cứu về lý thuyết về tác động của FDI

Các tài liệu lý thuyết về tác động của FDI và tăng trưởng kinh tế xác định các quan điểm tương phản từ các mô hình tăng trưởng tân cổ điển với các biến nội sinh. Trong bối cảnh mô hình tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng dài hạn chỉ có thể là kết quả của tiến bộ công nghệ và/hoặc tăng trưởng lực lượng lao động, được coi là ngoại sinh. Một số nghiên cứu thực nghiệm của De Mello (1997) và Solow (1957) mô hình hóa tác động của FDI trong khuôn khổ này vì nó có thể kích thích tăng trưởng kinh tế nếu nó ảnh hưởng tích cực và tiến bộ công nghệ. FDI chỉ ảnh hưởng đến tăng trưởng trong ngắn hạn và không thay đổi tăng trưởng dài hạn. Sự thiếu thực tế này trong các mô hình tân cổ điển đã kích thích sự phát triển của mô hình tăng trưởng nội sinh, mà nhiều người coi là một mô hình phù hợp hơn nhấn mạnh vai trò của thay đổi công nghệ.

Mô hình tăng trưởng nội sinh đã được phát triển bởi Lucas (1988), Rebelo (1991) và Romer (1986). Mô hình tăng trưởng này nghiên cứu vốn dưới dạng tích lũy vốn nhân lực và R&D, đồng thời làm nổi bật các yếu tố bên ngoài phát sinh từ các loại vốn này. FDI khuyến khích việc kết hợp các yếu tố đầu vào và công nghệ mới trong hệ thống sản xuất của các nước nhận vốn. FDI cũng có thể kích thích tăng trưởng kinh tế một cách nội sinh nếu nó tạo ra năng suất, tác động tích cực từ bên ngoài và hiệu ứng lan tỏa. Vì FDI được coi là một nguồn bí quyết quan trọng, vốn nhân lực và sự khuếch tán công nghệ, những yếu tố này có thể được bắt đầu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua dòng vốn FDI cả trực tiếp và thông qua các kênh. Từ các mô hình tăng trưởng nội sinh đều có thể giải thích các tác động của dòng vốn FDI đối với tăng trưởng rõ ràng hơn, so với mô hình tăng trưởng tân cổ điển. Như vậy, có thể phù hợp hơn khi sử dụng các mô hình tăng trưởng nội sinh để giải thích mối liên hệ giữa FDI và tăng trưởng.

Mặt khác, một số tác giả cho rằng FDI có thể không ảnh hưởng đến tăng trưởng. Các tác giả này chỉ ra rằng tác động của FDI đến tăng trưởng là có điều kiện dựa trên sự tồn tại của một số yếu tố khác. Ví dụ, các mô hình được đề xuất bởi Benhabib & Spiegel (1994) và Nelson & Phelps (1966) nhấn mạnh sự cần thiết phải có một nguồn vốn nhân lực phù hợp như một khả năng hấp thụ. Theo Akinlo (2004), FDI chỉ đóng góp cho tăng trưởng kinh tế khi khả năng hấp thụ đủ có sẵn trong nền kinh tế chủ nhà để hấp thụ các công nghệ tiên tiến. Hơn nữa, tác động có lợi của FDI được làm giàu trong một môi trường đặc trưng bởi chế độ đầu tư, thương mại mở và sự ổn định kinh tế vĩ mô (Balasubramanyam& cộng sự, 1996). Do đó, tác động thuần túy của FDI đối với tăng trưởng có thể bằng không, trong khi tác động của FDI tương tác với một số yếu tố như vốn nhân lực, phát triển thị trường tài chính và thương mại, có thể tương quan thuận với tăng trưởng thu nhập (Borensztein & cộng sự, 1998).

Các học giả khác thảo luận rằng FDI có thể có tác động xấu đến tăng trưởng do các cơ chế can thiệp của sự phụ thuộc và giảm vốn. Theo lý thuyết phụ thuộc được phát triển bởi Amin (1974) và Frank (1978), dòng vốn nước ngoài sẽ không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế dài hạn ở các nước đang phát triển. Một tác động bất lợi của FDI đối với tăng trưởng cũng có thể được giải thích bằng việc giải mã nếu FDI thay thế tiết kiệm trong nước hoặc chuyển vốn trong nước sang các lĩnh vực hoạt động FDI từ các khu vực sản xuất khác.

Các nghiên cứu thực nghiệm

Một số nghiên cứu hỗ trợ cho lý thuyết rằng FDI có lợi cho tăng trưởng, Reisen & Soto (2001) chứng mình rằng danh mục đầu tư nước ngoài và đầu tư trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng. Basu & Guariglia (2007) nghiên cứu 119 quốc gia kết luận mối liên hệ giữa FDI và tăng trưởng là tích cực. Bằng cách áp dụng kỹ thuật dữ liệu bảng GMM, Hosein (2015) nhận thấy rằng FDI nói chung có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, nhưng mức độ của nó phụ thuộc vào điều kiện của nước sở tại để đạt được tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.

Một số nghiên cứu tìm thấy tác động của FDI lên tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào điều kiện môi trường của nước chủ nhà (De Mello, 1997). Borensztein & cộng sự (1998) cho rằng FDI thúc đẩy tăng trưởng thông qua khuếch tán công nghệ, nếu nền kinh tế chủ nhà tự hào có đủ khả năng hấp thụ1. Hermes & Lensink (2003) cũng đồng tình với kết luận này. Tuy nhiên, Durham (2004) tìm thấy trong một nghiên cứu lớn gồm nhiều quốc gia rằng FDI không có tương quan đáng kể với tăng trưởng kinh tế, giải thích điều này là bằng chứng về khả năng hấp thụ cần thiết của nền kinh tế chủ nhà. Vì vậy, các nền kinh tế phát triển với nguồn nhân lực lớn hơn sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ FDI. Điều này được ủng hộ bởi Prasad & cộng sự (2007) và Batten & Vo (2009). Nhưng các nghiên cứu khác không đồng tình, Campos & Kinoshita (2002), Borensztein & cộng sự (1998) đánh giá lại mô hình và thấy rằng FDI ảnh hưởng ngoại sinh đến tăng trưởng, không phân biệt vốn nhân lực. Li & Liu (2005) chỉ ra tác động tích cực của FDI và tăng trưởng kinh tế đối với cả các nước phát triển và đang phát triển. Nghiên cứu cũng chỉ ra vai trò quan trọng đối với nguồn nhân lực để tăng cường tác động của FDI.

Ý tưởng về sự cần thiết phải có đủ năng lực hấp thụ được hỗ trợ bởi nghiên cứu về các điều kiện kinh tế xã hội để đầu tư cho R&D được chuyển thành đổi mới và tăng trưởng (ví dụ, Bilbao-Osorio & Rodríguez-Pose, 2004). Nó đã được mở rộng trong bối cảnh FDI của Hermes & Lensink (2003), họ cho rằng FDI là một yếu tố quyết định tăng trưởng không đáng kể và chỉ có thể tạo ra hiệu ứng tích cực khi hệ thống tài chính trong nước đã phát triển đủ và đề xuất rằng FDI có lợi hơn ở các nền kinh tế phát triển. Các nghiên cứu sau này đã cố gắng kết hợp tất cả các khía cạnh của khả năng hấp thụ: Carkovic & Levine (2005) nghiên cứu các giả thuyết rằng hiệu quả của FDI phụ thuộc vào mức độ vốn nhân lực, thị trường tài chính trong nước (Hermes & Lensink, 2003; Alfaro & cộng sự, 2004), và thu nhập ban đầu (Blomström & cộng sự, 1992). Tuy nhiên, khi tính đến tác động cụ thể của từng quốc gia, họ kết luận rằng dòng vốn FDI không ảnh hưởng mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế.

Balasubramanyam & cộng sự (1996) kiểm tra mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế, FDI và chiến lược thương mại, và cho rằng dòng vốn FDI tăng cường tăng trưởng ở các nước định hướng xuất khẩu nhưng không thay thế nhập khẩu. Họ thậm chí còn cho rằng FDI là một yếu tố quyết định tăng trưởng mạnh mẽ hơn so với đầu tư trong nước (Romer, 1993).

Bornschier & cộng sự (1978) kết luận rằng FDI có tác động tiêu cực đến sự tăng trưởng của các nước đang phát triển. Cùng quan điểm trên, Fry (1993) nghiên cứu ở mười một quốc gia, FDI tác động tiêu cực đến tăng trưởng. De Mello (1997) cho thấy rằng FDI có tác động tích cực đến các quốc gia OECD, nhưng lại có tác động tiêu cực đối với các nước không thuộc OECD2. Trong một nghiên cứu của 36 quốc gia đang phát triển, Agosin & Machado (2005) nhận thấy rằng vốn FDI là “tốt nhất là không thay đổi đầu tư trong nước”, mặc dù đôi khi, đặc biệt là ở Mỹ Latinh, nó đã thu hút đầu tư trong nước. Carkovic & Levine (2005) chỉ trích các nghiên cứu trước đây về tác động của FDI đối với tăng trưởng do tính nội sinh và thực hiện bằng phương pháp hồi quy mô men tổng quát (GMM), tuy nhiên họ không tìm thấy sự thúc đẩy mạnh mẽ của tăng trưởng từ FDI. Herzer (2012) phân tích tác động của FDI đối với tăng trưởng kinh tế ở 44 nước đang phát triển, áp dụng phương pháp GETS để xác định các yếu tố đặc thù của quốc gia và chỉ ra tác động tiêu cực đến tăng trưởng nhưng có sự khác biệt lớn giữa các quốc gia. Johnson (2006) báo cáo rằng FDI thúc đẩy tăng trưởng ở các nước đang phát triển nhưng không tăng ở các nước phát triển. Xu & Wang (2000) tìm thấy một tác động tích cực của FDI đối với tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển trong mẫu của mình.

Nair-Reichert & Weinhold (2001) nghiên cứu quan hệ nhân quả FDI và tăng trưởng kinh tế. Họ chỉ ra rằng sự cởi mở hơn đối với thương mại làm tăng hiệu quả tăng trưởng của FDI (ủng hộ bởi Balasubramanyam & cộng sự, 1996). Hansen & Rand (2006) chứng minh quan hệ nhân quả mạnh mẽ từ FDI đến tăng trưởng bất kể trình độ phát triển nào. Nghiên cứu mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa FDI và tăng trưởng đã được củng cố bởi Choe (2003)3 và Chowdhury & Mavrotas (2006). Duttaray & cộng sự (2008) kiểm tra quan hệ nhân quả đối với từng quốc gia của họ, tuy nhiên kết quả mơ hồ. Zhang (2001) lập luận rằng các điều kiện cụ thể của từng quốc gia đặt ra nghi ngờ về giả thuyết rằng FDI dẫn đến tăng trưởng cao hơn. Mencinger (2003) nhận thấy rằng FDI tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, với quan hệ nhân quả là vô tình từ FDI đến tăng trưởng. Các học giả khác (Herzer & cộng sự, 2008) không tìm thấy mối quan hệ nhân quả nào từ FDI đến tăng trưởng. Refeal & cộng sự (2017) nghiên cứu ở 19 nước Mỹ Latin cũng không tìm thấy FDI tác động tới tăng trưởng kinh tế khi xem xét tổng thể. Lawrance & cộng sự (2019) tìm thấy bằng chứng về tác động tiêu cực của FDI đối với tăng trưởng kinh tế ở 34 nước Châu Phi tiểu vùng Sahara (SSA – Sub-Saharan Africa). Ali & Mingque (2018) áp dụng kiểm định quan hệ nhân quả Granger (GC) tìm thấy mối quan hệ lẫn nhau không rõ ràng giữa FDI và tăng trưởng kinh tế ở một số nước Châu Á phát triển.

Tóm lại, không có sự đồng thuận trong nghiên cứu thực nghiệm về tác động của FDI đối với tăng trưởng kinh tế của các nước ở các khu vực khác nhau, cũng như về mối quan hệ nhân quả. Đặc biệt trong một thập kỷ qua chưa có nghiên cứu nào về mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN. Liệu có hay không sự tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế và tác động như thế nào? Đó chính là khoảng trống mà nhóm tác giả muốn quan tâm giới thiệu nhằm cung cấp thêm những bằng chứng về sự tác động này ở khu vực ASEAN từ sau cuộc Khủng hoảng Tài chính 2008.

Đánh giá kết luận

Bài viết đã phân tích tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và tăng trưởng kinh tế của 10 quốc gia thành viên ASEAN (Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam) trong giai đoạn 2009 đến 2018.

Trên cơ sở Hàm sản xuất Cobb-Douglas, bằng việc sử dụng dữ liệu bảng và phương pháp ước lượng các mô hình POLS, RE và FE được sử dụng để đánh giá tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này. Kết quả cho thấy, dòng vốn FDI vào các nước ASEAN không có ý nghĩa đối với sự tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN trong giai đoạn 2009-2018.

Điều này được giải thích bằng nhiều lý do khác nhau như khả năng hấp thụ và sự khác biệt về trình độ. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ ra yếu tố lao động và xuất khẩu có tác động mạnh đến tăng trưởng kinh tế ở khu vực, cứ tăng 1% lực lượng lao động thì sẽ tác động đến 2,389% GDP. Kết quả này gợi ý cho các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam, cần có chính sách để duy trì lực lượng lao động cũng như chính sách hướng về xuất khẩu thay vì thu hút đầu tư nước ngoài (FDI).

Bài viết cùng chủ đề:

Tác động của xuất khẩu đến năng suất | Novicards

Đánh giá Novi cards
Tags: FDIKinh tếLý thuyết tài chínhTiền tệĐầu tư trực tiếp nước ngoài
Previous Post

Tác động của xuất khẩu đến năng suất | Novicards

Next Post

Điều chỉnh không gian tài khóa để pháp triển bền vững ở Việt Nam

Related Posts

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài | Novicards

2022

Vai trò phát triển tài chính và tăng trưởng doanh nghiệp | Novicards

2022

Đặc điểm và phân loại cổ phiếu theo Luật doanh nghiệp Việt Nam | Novicards

2022

Hoạt động soát xét báo cáo tài chính là gì | Novicards

2022

Yếu tố tâm lý đầu tư trong đầu tư chứng khoán – Novicards

2022

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định, hành vi sử dụng mobile apps du lịch

2022
Advertisements
Lazada_Voucher

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài | Novicards

Vai trò phát triển tài chính và tăng trưởng doanh nghiệp | Novicards

Đặc điểm và phân loại cổ phiếu theo Luật doanh nghiệp Việt Nam | Novicards

Hoạt động soát xét báo cáo tài chính là gì | Novicards

Giá trị thương hiệu và trung thành thương hiệu trong internet marketing | Novicards

Yếu tố tâm lý đầu tư trong đầu tư chứng khoán – Novicards



Recent News

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài | Novicards

Vai trò phát triển tài chính và tăng trưởng doanh nghiệp | Novicards

Đặc điểm và phân loại cổ phiếu theo Luật doanh nghiệp Việt Nam | Novicards

Home

  • About
  • Privacy
  • Contact

Categories

  • Doanh nghiệp
  • Kinh doanh
  • Kinh tế
  • Kinh tế học
  • Tài chính
  • Đầu tư

NoviCards.

Novicards.com trang chia sẻ thông tin kiến thức kinh tế tài chính.

DMCA.com Protection Status   |   DMCA & NoviCards.com
No Result
View All Result
  • About
  • Contact
  • Hotline

© 2021 https://novicards.com

No Result
View All Result
  • Kinh tế
  • Tài chính
  • Kinh doanh
  • Doanh nghiệp
  • Liên hệ
    • About
    • Privacy
    • Contact
    • DMCA

© 2021 https://novicards.com

Welcome Back!

Login to your account below

Forgotten Password? Sign Up

Create New Account!

Fill the forms below to register

All fields are required. Log In

Retrieve your password

Please enter your username or email address to reset your password.

Log In

NoviCards | Kiến thức Kinh tế Tài chính to your Homescreen!

Home App Lite
This site uses cookies. By browsing this website, you agree to our use of cookies. Visit our Privacy Policy